Tuy không có nhiều lễ hội như các nơi khác, nhưng Bình Dương với nét văn hóa lễ hội rất đặc trưng như lễ hội chùa ông Bổn, lễ hội Kỳ lặng tại những đình thần, lễ hội đua thuyền truyền thống,…. Nhưng điển hình nhất là lễ hội chùa Bà hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng Âm lịch tại miếu Bà Thiên Hậu “Thiên Hậu Cung”. Chùa Bà ngày nay tọa lạc tại số 04 các con phố Nguyễn Du, tỉnh thành Thủ Dầu 1 và tại P. Phú Chánh, TX. Tân Uyên. Chùa do 4 ban người Hoa tạo lập để thờ vị nữ huyền diệu là Thiên Hậu Thánh loại. Cùng chúng tôi tìm hiểu về lễ hội chùa bà Thiên Hậu nhé!
Mục Lục
Lễ hội chùa bà Thiên Hậu được tổ chức vào ngày 23/3 âm lịch hàng năm
Lễ hội chùa bà Thiên Hậu được tổ chức vào ngày 23/3 âm lịch hàng năm, tại 710 Nguyễn Trãi, quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Lễ hội nhằm suy tôn Bà Thiên Hậu.
Bà có tên thật là Mi Châu, sinh ngày 23 tháng 3 (âm lịch) năm Giáp Thân (1044), sống ở Phước Kiến (Trung Quốc). Theo sự tích kể lại thì ngày hôm ấy cha Bà là Lâm Tích Khánh cùng hai anh trai đi thuyền chở muối đến Giang Tây, giữa đường gặp bão lớn. Lúc đó Bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ nhưng xuất thần để đi cứu cha và hai anh. Bà dùng răng cắn được chéo áo của cha, hai tay nắm hai anh, giữa lúc đó mẹ kêu gọi Bà, ép Bà trả lời, Bà vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất dạng, chỉ cứu được hai anh. Từ đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến Bà. Năm Canh Dần (1110) nhà Tống sắc phong cho Bà là “Thiên Hậu Thánh Mẫu”.
Chùa Bà Thiên Hậu hàng ngày vẫn đón tiếp những người đến cúng lễ khá đông. Nhưng đông hơn là vào các ngày mùng một và rằm hàng tháng, các ngày lễ Tết trong năm của người Hoa như Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ v.v… Đặc biệt, ngày 28 Tết, chùa tiến hành lễ cúng Bà và Lễ khai ấn, cầu mong Bà phò trợ cho “Hộ quốc an dân” và “Hợp cảnh bình an”. Riêng ngày vía Bà (23 tháng 3 âm lịch) được xem là ngày hội chính của chùa.
Ý nghĩa của lễ hội chùa bà Thiên Hậu
Vào ngày lễ, bà con người Hoa, người Việt đến cúng lễ rất đông. Đêm 22 sẽ diễn ra Lễ tắm Bà. Sáng ngày 23, mọi người lại tổ chức Lễ rước Bà: Tượng Bà được đặt vào kiệu do các thanh niên nam nữ ăn mặc đẹp đẽ diễu qua các đường phố quanh chùa. Theo sau kiệu có thuyền rồng, các tấm bảng đỏ ghi tên các vị thần được thờ phụng trong chùa, các đội múa gồm: múa lân, múa sư tử, múa rồng, các đội nhạc dân tộc vừa biểu diễn vừa múa hát, tạo nên một quang cảnh náo nhiệt trong các khu phố đông đảo người Hoa…
Chùa Bà Thiên Hậu (theo cách gọi của người Việt) còn được gọi là chùa Bà Chợ Lớn, tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu, người Hoa gọi là Phò Miếu (tức miếu Đức Bà). Và do bên cạnh chùa có Tuệ Thành Hội quán là nơi quy tụ của nhóm người Hoa Quảng Đông, nên chùa còn được gọi Tuệ Thành Hội quán.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất của người Hoa đã gây dựng trên đất Đề Ngạn xưa. Chùa nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập nên Chợ Lớn sau này. Chùa Bà Thiên Hậu được nhóm người Hoa gốc huyện Tuệ Thành, Quảng Đông đã rời bỏ làng quê sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng vào khoảng năm 1760 và được trùng tu lớn vào các năm 1800, 1842, 1890, 1916…
Nguồn gốc của chùa thờ bà Thiên Hậu
Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: “Cách huyện Bình Dương 12 dặm. Ở phía tả và phía hữu đường quan lộ. Nơi chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc như hình chữ “điền”. Nhà cửa phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người Hán. Người Thổ ở chung lộn dài độ 3 dặm, đủ cả hàng hóa trăm thức. Ở bên sông Nam và Bắc không thiếu món gì, đầu phía Bắc đường lớn có đền Quan Công. Quán Tam Hội, xây cất đối nhau phía tả và phía hữu. Phía Tây đường lớn có chùa Thiên Hậu, gần phía Tây có Ôn Lăng Hội Quán”.
Chùa thờ bà Thiên Hậu là chính. Bà được người Quảng Đông gọi là “A Phò” (Đức Bà). Người Phúc Kiến và Hải Nam thích gọi bà là “Đạo Mẫu”. Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa. Đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ “khẩu” hoặc chữ “quốc”. Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng. Đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương.
Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối. Biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc “tứ linh”…
Lịch sử lâu đời của chùa Bà Thiên Hậu
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu. Có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ. Nơi đây còn có một giá trị khác, đó không chỉ là nơi đáp ứng. Nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ. Và tương trợ lẫn nhau của bà con người Việt gốc Hoa (Quảng Đông).
Sự tích Bà Thiên Hậu, qua người kể đôi khi có ít nhiều dị biệt nhưng chủ yếu. Vẫn là đề cao một người phụ nữ Hoa có lòng hiếu thảo, đức hạnh, dám xả thân vì mọi người…Sự đề cao này nhằm mục đích giáo dục.
Mặt khác trên bước đường nguy nan, nhiều sóng gió khi sang vùng đất mới để mưu sinh, người Hoa tin tưởng sự hiển linh của bà sẽ giúp họ vượt qua được mọi trở ngại và được an cư lạc nghiệp. Để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với sự phù trợ của Bà, Chùa Bà Thiên Hậu có vị trí quan trọng đối với người Hoa Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu… và cả người Việt.
Bài viết trên là vài nét về lễ hội chùa bà Thiên Hậu tại thành phố Hồ Chí Minh. Hy vọng qua đó, bạn có thể hiểu thêm về văn hóa Việt Nam. Hãy theo dõi website thường xuyên để xem nhiều bài viết thú vị hơn nhé!